Ngày 26/11/2013, Quốc hội Khóa XIII đã thông qua Luật đấu thầu số 43/2013/QH13. Luật được Chủ tịch nước ký Lệnh công bố ngày 09/12/2013 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2014. Luật gồm 13 chương với 96 điều được xây dựng trên cơ sở Luật đấu thầu năm 2005, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản năm 2009.
So với Luật đấu thầu 2005, Luật đấu thầu 2013 có nhiều điểm mới đáng chú ý sau đây:
Thứ nhất, Luật đấu thầu năm 2013 ưu tiên phát triển nguồn lực, tạo cơ hội cho nhà thầu trong nước trúng thầu và tạo công ăn việc làm cho lao động trong nước, ưu đãi đối với nhà thầu và hàng hóa sản xuất trong nước nhằm thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị về “Khuyến khích người Việt Nam ưu tiên dung hàng Việt Nam” đồng thời từng bước giúp nhà thầu Việt Nam tiếp nhận công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tự chủ, nâng cao năng lực, sức cạnh tranh để tiến tới trở thành nhà thầu độc lập thực hiện các gói thầu lớn, công nghệ cao, phức tạp không chỉ tại thị trường Việt Nam mà cả trên thị trường quốc tế.
Thứ hai, Luật đấu thầu năm 2013 đã sửa đổi một số quy định hiện hành nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính trong hoạt động đấu thầu theo tinh thần Nghị quyết số 25/NQ-CP ngày 2/6/2010 và Nghị quyết số 70/NQ-CP ngày 27/12/2010 của Chính phủ, đồng thời quy định cụ thể hơn về các quy trình lựa chọn nhà thầu đối với từng trường hợp cụ thể.
Thứ ba, Luật quy định rõ phương pháp đánh giá hồ sơ dự thầu theo từng lĩnh vực cụ thể: lựa chọn nhà thầu (dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp); lựa chọn nhà đầu tư. Trong đó, phương pháp đánh giá hồ sơ dự thầu bao gồm: phương pháp giá dịch vụ, phương pháp góp vốn của Nhà nước, phương pháp lợi ích xã hội, lợi ích Nhà nước và phương pháp kết hợp; tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu bao gồm: tiêu chuẩn đánh giá về năng lực, kinh nghiệm; tiêu chuẩn đánh giá về kỹ thuật; tiêu chuẩn đánh giá về tài chính.
Bên cạnh đó, Luật đấu thầu 2013 bổ sung thêm 04 phương pháp đánh giá mới nhằm đa dạng hóa phương pháp đánh giá để phù hợp với từng loại hình và quy mô của gói thầu, đồng thời khắc phục tình trạng bỏ thầu giá thấp nhưng không đủ năng lực, kinh nghiệm để thực hiện gói thầu. Đó là phương pháp giá thấp nhất và phương pháp kết hợp giữa kỹ thuật và giá (áp dụng đối với gói thầu dịch vụ phi tư vấn, hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp); phương pháp giá thấp nhất và phương pháp giá cố định (áp dụng đối với gói thầu tư vấn).
Thứ tư, Luật quy định hình thức mua sắm tập trung để áp dụng rộng rãi trong công tác đấu thầu. Theo hình thức này, thay vì tổ chức mua sắm ở hàng trăm cơ quan khác nhau thì cơ quan mua sắp tập trung sẽ chịu trách nhiệm tổ chức mua sắm chuyên nghiệp một lần. Hình thức này không chỉ giúp tăng tính chuyên nghiệp trong hoạt động mua sắm mà còn tạo điều kiện nâng cao hiệu quả, rút ngắn thời gian và chi phí tổ chức mua sắm, đồng thời hỗ trợ phát triển sản xuất trong nước và khuyến khích nhà thầu nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ.
Thứ năm, Luật đấu thầu năm 2013 có một mục quy định về thuốc, vật tư y tế sử dụng vốn nhà nước, nguồn quỹ bảo hiểm y tế, nguồn thu từ dịch vụ khám chữa bệnh và nguồn thu hợp pháp khác của cơ sở y tế công lập. Riêng đối với đấu thầu mua thuốc, Luật đấu thầu năm 2013 quy định bổ sung hình thức đàm phán đánh giá đối với gói thầu mua thuốc chỉ có từ một đến hai nhà sản xuất, thuộc biệt dược gốc, thuốc hiếm, thuốc trong thời gian còn bản quyền và các trường hợp đặc thù khác theo quy định của Chính phủ.
Thứ sáu, Luật bổ sung quy định mang tính nguyên tắc về thủ tục, phương pháp lựa chọn nhà đầu tư trên cơ sở tổng hợp các thông lệ quốc tế tốt và rút kinh nghiệm từ thực tiễn lựa chọn nhà đầu tư tư nhân trong và ngoài nước thực hiện các dự án kết cấu hạ tầng và dịch vụ công cộng tại Việt Nam trong thời gian qua. Đi đôi với giải pháp phát triển quyết liệt để thực hiện dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) nhằm thúc đẩy tái cơ cấu đầu tư công, quy định này góp phần tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thu hút, lựa chọn nhà đầu tư một cách minh bạch, cạnh tranh; xây dựng niềm tin của nhà đầu tư đối với môi trường đầu tư tại Việt Nam.
Rất đáng lưu ý là việc lựa chọn nhà đầu tư, nhà thầu qua mạng được quy định cụ thể tại các Điều 60 và 61 của Luật Đấu thầu 2013.
Thứ bảy, Luật đấu thầu năm 2013 đã sửa đổi một số quy định hiện hành về ký kết thực hiện và quản lý hợp đồng; quy định hợp đồng trọn gói là loại hợp đồng cơ bản, khi quyết định áp dụng loại hợp đồng theo đơn giá cố định, đơn giá điều chỉnh thì người phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu phải đảm bảo loại hợp đồng này phù hợp hơn so với hợp đồng trọn gói.
Thứ tám, khác với Luật đấu thầu năm 2005, Luật đấu thầu năm 2013 phân cấp triệt để việc quyết định hình thức chỉ định thầu cho Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các cấp mà không yêu cầu trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Để việc phân cấp gắn với trách nhiệm giải trình, tránh khép kín trong đấu thầu, Luật đấu thầu năm 2013 đã bổ sung quy định về trách nhiệm giải trình của người dân có thẩm quyền, chủ đầu tư trong quá trình tổ chức lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư.
Thứ chín, Luật cũng bổ sung quy định về yêu cầu giám sát của cộng đồng trong quá trình lựa chọn nhà thầu và thực hiện hợp đồng, bổ sung trách nhiệm về giám sát của người có thẩm quyền, cơ quan quản lý nhà nước về đấu thầu, đồng thời quy định rõ trách nhiệm của cá nhân đối với từng hoạt động trong quá trình đấu thầu để có cơ sở quy định chế tài xử lý vi phạm tương ứng với từng hành vi vi phạm.
Thứ mười, Luật đấu thầu năm 2013 bổ sung một số hành vi bị cấm trong đấu thầu, đồng thời quy định thêm biện pháp xử phạt đối với cá nhân được giao trách nhiệm xử phạt nhưng không tuân thủ quy định, các biện pháp phạt bổ sung như đăng tải công khai các tổ chức, cá nhân vi phạm trên phương tiện thông tin đại chúng, buộc phải thực hiện đúng quy định của pháp luật về đấu thầu hoặc bồi thường thiệt hại theo quy định.
Ngày 26/6/2014, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 63 /2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đấu thấu về lựa chọn nhà thầu. Nghị định gồm 15 chương với 130 điều có hiệu lực thi hành từ 15/8/2014 và thay thế Nghị định 85/2009/NĐ-CP, Nghị định 68/2012/NĐ-CP, Quyết định 50/2012/QĐ-TTg. Theo đó, có những điểm mới đáng chú ý sau:
1. Đánh giá nhà thầu độc lập (Khoản 4 điều 2): Nhà thầu được đánh giá độc lập về pháp lý, tài chính với nhà thầu khác; với nhà thầu tư vấn; với chủ đầu tư, bên mời thầu khi đáp ứng các điều kiện sau:
- Không cùng một cơ quan hoặc tổ chức trực tiếp quản lý đối với đơn vị sự nghiệp.
- Nhà thầu với chủ đầu tư, bên mời thầu không có cổ phần hoặc vốn góp trên 30% của nhau.
- Nhà thầu không có cổ phần hoặc vốn góp trên 20% của nhau khi cùng tham dự thầu trong một gói thầu đối với đấu thầu hạn chế.
- Nhà thầu tham dự thầu với nhà thầu tư vấn không có cổ phần hoặc vốn góp cùng nhau; không cùng có cổ phần hoặc vốn góp trên 20% của một tổ chức, cá nhân khác với từng bên.
2. Nguyên tắc ưu đãi (Điều 3): Đây là quy định hoàn toàn mới trong NĐ 63, Theo đó:
- Trường hợp sau khi tính ưu đãi, nếu các hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất xếp hạng ngang nhau thì ưu tiên cho nhà thầu có đề xuất chi phí trong nước cao hơn hoặc sử dụng nhiều lao động địa phương hơn.
- Trường hợp nhà thầu tham dự thầu thuộc đối tượng được hưởng nhiều hơn một loại ưu đãi thì khi tính ưu đãi chỉ được hưởng một loại ưu đãi cao nhất.
- Đối với gói thầu hỗn hợp, việc tính ưu đãi căn cứ tất cả các đề xuất của nhà thầu trong các phần công việc tư vấn, cung cấp hàng hóa, xây lắp. Nhà thầu được hưởng ưu đãi khi có đề xuất chi phí trong nước từ 25% trở lên giá trị công việc của gói thầu.
3. Ưu đãi đối với hàng hóa trong nước (Khoản 1 điều 5): Hàng hóa trong nước được ưu đãi khi nhà thầu chứng minh được hàng hóa đó có chi phí sản xuất trong nước chiếm tỷ lệ từ 25% trở lên trong giá hàng hóa.
4. Ưu đãi đối với đấu thầu trong nước (Điều 6): Ưu đãi đối với gói thầu mua sắp hàng hóa trong nước; hồ sơ dự thầu, đề xuất của nhà thầu có tổng số lao động là nữ giới hoặc thương binh, người khuyết tật có tỷ lệ 25% trở lên và có hợp đồng lao động tối thiểu 3 tháng; nhà thầu là doanh nghiệp nhỏ thuộc đối tượng hưởng ưu đãi…
5. Điều khoản hướng dẫn thi hành:
5.1. Đối với những gói thầu đã phê duyệt kế hoạch đấu thầu nhưng đến ngày 01/7/2014 chưa phát hành hồ sơ mời quan tâm, hồ sơ mời sơ tuyển, hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu nếu không phù hợp với Luật đấu thầu 2013 thì phải phê duyệt điều chỉnh kế hoạch đấu thầu. Đối với hồ sơ mời quan tâm, hồ sơ mời sơ tuyển, hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu được phát hành trước ngày 01/7/2014 thì được thực hiện theo quy định của Luật đấu thầu 2005, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản 2009, Nghị định số 85/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009, Nghị định số 68/2012/NĐ-CP ngày 12/9/2012 của Chính phủ, Quyết định số 50/QĐ-TTg ngày 9/11/2012 của Thủ tướng Chính phủ và các Thông tư liên quan. (Khoản 1 điều 129).
5.2. Trong thời gian từ 01/7/2014 đến ngày 15/8/2014 việc triển khai thực hiện lựa chọn nhà thầu thực hiện theo Luật đấu thầu 2013; Nghị định 85, Nghị định 68 và các văn bản hướng dẫn có liên quan nhưng đảm bảo không trái với Luật đấu thầu 2013 (Khoản 2 điều 129).
5.3. Đối với việc mua sắm sử dụng vốn nhà nước nhằm cung cấp sản phẩm dịch vụ công, việc lựa chọn nhà thầu theo hình thức đặt hàng, giao kế hoạch thực hiện theo quy định tại Nghị định 130/2013/NĐ-CP; các hình thức lựa chọn nhà thầu khác được thực hiện theo Luật đấu thầu 2013 và Nghị định này (Khoản 3 điều 129).
5.4. Cá nhân đã được cấp chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ đấu thầu trước ngày 15/8/2014 vẫn được tham gia các hoạt động đấu thầu theo quy định tại điều 16 của Luật đấu thầu 2013 nhưng phải tự cập nhật các nội dung quy định tại văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu hiện hành (Khoản 4 điều 129).
Những nội dung đổi mới cần lưu ý trong hoạt động đấu thầu:
- Phải đăng tải thông tin kết quả lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư phải đăng tin trên báo Đấu thầu 1 kỳ.
- Giá bán hồ sơ mời thầu tối đa là 2 triệu đồng; Hồ sơ đề xuất 1 triệu đồng.
- Thời gian lưu trữ hồ sơ lựa chọn nhà thầu tối thiểu 3 năm kể từ khi quyết toán hợp đồng;
- Bên mời thầu phải tiếp nhận tất cả HSDT của tất cả các nhà thầu nộp trước thời điểm đóng thầu, kể cả nhà thầu chưa mua hoặc chưa nhận HSMT trực tiếp từ chủ đầu tư. Trường hợp nhà thầu chưa mua HSMT phải nộp cho bên mời thầu khoản tiền bằng giá bán HSMT.
- Việc mở HSMT phải tiến hành trong vòng 1 giờ kể từ thời điểm đóng thầu
- Đại diện bên mời thầu phải ký xác nhận một số tài liệu bản gốc quan trọng trong HSDT (Đơn dự thầu, đảm bảo dự thầu, Đề xuất tài chính...)
- Hạn mức chỉ định thầu: 500 triệu đối với Tư vấn; 1 tỷ đối với Xây lắp, hàng hóa, 100 triệu đối với mua sắm thường xuyên.
- Hạn mức chào hàng cạnh tranh: 5 tỷ; chào hàng cạnh tranh rút gọn 300 triệu, 200 triệu đối với mua sắm thường xuyên.
- Nhà thầu được chỉ định thầu phải có tên trong cơ sở dữ liệu về nhà thầu của cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động đấu thầu
- Về tự thực hiện phải có phương án tự thực hiện, Dự thảo hợp đồng, hợp đồng hoặc thỏa thuận giao việc.
- Gói thầu quy mô nhỏ được xác định là không quá 10 tỷ đối với Tư vấn, hàng hóa, 20 tỷ đối với gói thầu xây lắp.
- Quy định riêng về mua sắm thường xuyên.
- Việc thanh toán phải căn cứ vào giá hợp đồng và các điều khoản nêu trong hợp đồng không căn cứ theo dự toán cũng như các quy định, hướng dẫn hiện hành của Nhà nước về định mức, đơn giá, không căn cứ hóa đơn tài chính của Nhà thầu đối với các yếu tố đầu vào.
Việc cập nhật kiến thức pháp luật thường xuyên, kịp thời để thực hiện đúng quy định là yêu cầu quan trọng trong công tác quản lý nhất là công tác Quản lý Đầu tư xây dựng và mua sắm vật tư, thiết bị. Bên cạnh những quy định của pháp luật, Tập đoàn Điện lực Việt Nam và Tổng Công ty Điện lực Miền Bắc cũng có những quy chế, quy định riêng cho công tác đấu thầu. Vì vậy mỗi thành viên tham gia quản lý dự án, tham gia hoạt động đấu thầu phải hiểu cập nhật thường xuyên quy định mới và áp dụng hiệu quả trong công tác./.
Nguyễn Thị Thọ Bình - P. TCKT